Hội nghị tổng kết công tác năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Chính phủ và chính quyền địa phương
(VOVTV) - Sáng nay 5/1, Hội nghị tổng kết công tác năm 2023, triển khai nhiệm vụ năm 2024 của Chính phủ và chính quyền địa phương đã được diễn ra dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Dự Hội nghị có Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai cùng các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí Uỷ viên Trung ương, Lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành Trung ương và địa phương.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam; các ban, bộ, ngành, địa phương đã quan tâm, dành thời gian đến dự. Đặc biệt, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, do điều kiện công tác chưa đến dự được, đã gửi lời chúc mừng đến Hội nghị và kết quả của năm 2023 cao hơn năm 2022 và giao nhiệm vụ cho Chính phủ không được chủ quan, thoả mãn mà phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa để năm 2024 lại có kết quả cao hơn năm 2023.
Thủ tướng nhấn mạnh, trên tinh thần bám sát Kết luận số 64 của Trung ương, Kết luận số 65 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 103 của Quốc hội và tình hình thực tiễn; các báo cáo và dự thảo các Nghị quyết của Chính phủ gửi các đồng chí đã đánh giá đầy đủ, khá toàn diện về bối cảnh tình hình năm 2023, kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; đồng thời dự báo tình hình; đề ra định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2024.
Thủ tướng nêu rõ, nhìn lại năm 2023, về tổng thể tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn trong đó có "những cơn gió ngược" như lạm phát, lãi suất neo ở mức cao; suy giảm tăng trưởng; hậu quả dịch bệnh kéo dài; cạnh tranh chiến lược, xung đột ở Ukraina và Dải Gaza; thiên tai, biến đổi khí hậu; nguy cơ mất an ninh lương thực, năng lượng trên toàn cầu… Ở trong nước, nền kinh tế chịu "tác động kép" của các yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm bộc lộ rõ hơn sau đại dịch COVID-19. Trong khi đó, nước ta là nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, có độ mở cao, khả năng chống chịu, sức cạnh tranh còn hạn chế - một biến động nhỏ bên ngoài cũng có thể tác động, ảnh hưởng lớn đến bên trong.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu phân tích, đánh giá, làm sâu sắc hơn bối cảnh tình hình năm 2023 và tác động, ảnh hưởng đến nước ta.
"Trong bối cảnh đó, Việt Nam thể hiện rõ là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế ra sao? Việc đánh giá "Nhìn chung, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có kinh nghiệm hơn, đổi mới, chủ động, linh hoạt, hiệu quả hơn" đã đúng, đã đủ và khách quan chưa? Điểm mới trong chỉ đạo, điều hành năm 2023 là gì? Phải chăng trong điều kiện khó khăn, Chính phủ, chính quyền địa phương đã bám sát các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn nhằm "xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái" để có được những kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực như trong báo cáo gửi các đồng chí?
Trên thực tế, các cấp, các ngành, các địa phương đã nắm chắc tình hình và có phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả chưa? Đã lắng nghe các ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp, người dân, các tổ chức quốc tế thế nào? Việc tổ chức kịp thời nhiều hội nghị và ra nhiều quyết sách; việc thành lập 5 Tổ công tác giải ngân đầu tư công và 26 Tổ công tác đến các địa phương góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho ta bài học cụ thể gì? Có điểm gì cần lưu ý để tổ chức tốt hơn trong thời gian tới?", Thủ tướng nhấn mạnh.
Nói về kết quả phát triển KTXH năm 2023, Thủ tướng chỉ rõ, tình hình KTXH năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, chúng ta đã cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; an sinh xã hội và đời sống người dân được cải thiện; phòng chống tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh; quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt kết quả toàn diện, nổi bật; uy tín, vị thế của đất nước và niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước được củng cố, nâng lên.
Theo Thủ tướng, việc đánh giá khái quát như vậy đã đúng, sát thực tế và khách quan chưa? Trong bối cảnh tình hình khó khăn, chúng ta khẳng định những kết quả quan trọng, khá toàn diện đạt được, nhưng cũng cần phân tích, đánh giá có được là nhờ đâu? Điều hành tỷ giá, lãi suất, tín dụng năm 2023 có gì nổi bật so với năm 2022? Bội chi NSNN được kiểm soát tốt (khoảng 3,6%GDP), nợ công, nợ nước ngoài quốc gia dưới ngưỡng cảnh báo, nhưng để tận dụng được dư địa chính sách tài khoá này cho phát triển KTXH thì cần phải làm gì trong năm tới? Các cấp, các ngành, các địa phương đúc rút được bài học kinh nghiệm gì trong thực tiễn chỉ đạo điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá? Còn những lĩnh vực nào, chỉ tiêu gì có thể làm tốt hơn, cải thiện hơn trong thời gian tới?
Một số chỉ tiêu quan trọng đạt cao nhất trong nhiều năm qua (như vốn FDI thực hiện, giải ngân đầu tư công, xuất siêu, thu NSNN, công tác quy hoạch, sản xuất nông nghiệp…) trong bối cảnh khó khăn thể hiện điều gì? Vì sao tình hình thương mại, đầu tư quốc tế khó khăn mà vốn FDI thực hiện vẫn đạt được 23,18 tỷ USD? Giải ngân vốn đầu tư công dự báo đạt 95% kế hoạch, số tuyệt đối cao hơn 146 nghìn tỷ đồng phải chăng là nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương? Thu NSNN vượt 8,2% dự toán là do kinh tế phục hồi, do tăng cường quản lý thu, hay do cả 2 nguyên nhân hoặc còn các yếu tố khác? Việc chúng ta đạt và vượt tất cả các chỉ tiêu xã hội có được là do đâu? Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực rút ra bài học gì? Kết quả toàn diện, nổi bật của công tác đối ngoại năm 2023 mang lại những cơ hội mới, vận hội mới gì cần tận dụng cho phát triển đất nước?
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo quản lý, chỉ đạo điều hành có thể khẳng định: Đạt những kết quả nêu trên là nhờ sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự chủ động, tích cực, đồng hành của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chínhtrị; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, chủ động, kịp thời, sát thực tiễn, có hiệu quả của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; sự ủng hộ, tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng DN; sự hợp tác, hỗ trợ của bạn bè quốc tế. Đề nghị các đồng chí phân tích, làm rõ hơn các yếu tố này để tiếp tục làm tốt hơn, hiệu quả hơn trong năm 2024.
Gợi mở về việc đánh giá những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức Thủ tướng chỉ rõ, trong khi chúng ta khẳng định "Kết quả đạt được là cơ bản, nhưng vẫn còn những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức"; Thủ tướng đề nghị các đại biểu phân tích, làm rõ thêm nguyên nhân chủ quan và nêu giải pháp cụ thể đối với các vấn đề: Còn 5 chỉ tiêu không đạt kế hoạch trong đó lưu ý cần phải làm gì để năng suất lao động tăng nhanh và bền vững trong thời gian tới; Sức ép lạm phát và nợ xấu có xu hướng tăng nhất là trong bối cảnh lạm phát thế giới neo ở mức cao, đồng tiền nhiều nước mất giá, giá dầu thô, lương thực đang biến động mạnh; Những khó khăn, điểm nghẽn trong sản xuất kinh doanh, nhất là về xuất khẩu, thị trường, tiếp cận vốn, vướng mắc trên các thị trường BĐS, trái phiếu DN; Cơ cấu lại nền kinh tế còn những hạn chế, bất cập gì; cần làm gì để bảo đảm hiệu quả, bền vững? Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường có gì đáng lưu ý? Quốc phòng, an ninh, đối ngoại cần chú trọng vấn đề gì? Vì sao tội phạm ma tuý, tội phạm mạng còn diễn biến phức tạp? Gần đây vẫn xảy ra một số vụ tai nạn giao thông, cháy nổ nghiêm trọng; phải chăng còn có sự lơ là, chủ quan của một số địa phương, cơ quan, đơn vị?...
Về nguyên nhân tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm Thủ tướng đề nghị các đại biểu phân tích, đánh giá, chỉ rõ tồn tại, hạn chế; nguyên nhân khách quan là gì? Và nhất là nguyên nhân chủ quan, phải chăng là do việc nắm bắt, dự báo tình hình và phản ứng chính sách trong một số trường hợp còn bị động, lúng túng, chưa kịp thời? Hay do một số cơ quan, đơn vị, một bộ phận cán bộ, công chức chưa chủ động, tích cực, né tránh, sợ trách nhiệm, sợ sai? Việc huy động nguồn lực còn khó khăn, vướng mắc ở đâu, do thể chế hay do điều hành, tổ chức thực hiện?…Đồng thời người đứng đầu Chính phủ đề nghị các đại biểu nêu rõ những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn.
Về định hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2024 Thủ tướng Chính phủ đề nghị tập trung phân tích, đánh giá, dự báo tình hình năm 2024 có vấn đề gì mới? có điểm gì khác biệt, khó khăn hơn năm 2023? Để ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, chúng ta cần phải làm gì? Điều hành chính sách tiền tệ, tài khoá kết hợp với các chính sách khác thế nào? Làm thế nào để vừa thúc đẩy các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), vừa đẩy mạnh các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, trí tuệ nhân tạo, các ngành, lĩnh vực mới nổi, liên kết vùng)?...
Về các đột phá chiến lược Thủ tướng đề nghị các đại biểu cho ý kiến về việc làm thế nào công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế đạt được kết quả tốt hơn, đột phá hơn, hiệu quả hơn, đúng tiến độ và chất lượng cao hơn? Cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, công tác quy hoạch cần tiếp tục đổi mới thế nào? Cần có sáng kiến gì, biện pháp gì để đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng quan trọng quốc gia? Làm sao để huy động được nhiều nguồn lực hơn cho kết cấu hạ tầng? Cần có giải pháp gì để tạo chuyển biến có tính đột phá về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, tăng năng suất lao động?...
Để bảo đảm cơ cấu lại nền kinh tế thực chất, hiệu quả hơn cần phải có chính sách, giải pháp gì? Làm sao để thúc đẩy cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, sớm giải quyết các dự án, doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ còn lại? Có phải liên kết vùng chính là một động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển 6 vùng KTXH theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị?...
Cần làm gì để giải quyết bài toán gắn kết hài hòa hơn giữa phát triển văn hóa, xã hội với kinh tế? Để phát triển công nghiệp văn hoá, thúc đẩy nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân? Để huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu?...
Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại phải làm thế nào để không bị động, bất ngờ về chiến lược, như chúng ta đã làm tốt trong thời gian qua? Để thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh gắn kết với phát triển KTXH? Cần có cách làm, giải pháp mới gì để hiện thực hoá kết quả, cam kết của hoạt động đối ngoại cấp cao? Các cấp, các ngành, các địa phương cần phải làm gì để đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách, tạo đồng thuận xã hội? Để phát huy hơn nữa vai trò của công tác dân vận, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân cùng cả nước nỗ lực phấn đấu thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2024 và cả nhiệm kỳ 2021-2025?
Báo cáo tại hội nghị Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, năm 2023, thực hiện nhiệm vụ phát triển KTXH trong bối cảnh thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn; hậu quả từ đại dịch COVID-19 kéo dài; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột Nga - Ukraina và tại dải Gaza diễn biến phức tạp; kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm; thương mại, đầu tư quốc tế suy giảm; lạm phát neo ở mức cao, nhiều đồng tiền mất giá; nợ công toàn cầu tăng mạnh; các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro. An ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng gặp nhiều thách thức; thiên tai, biến đổi khí hậu gây hậu quả nghiêm trọng.
Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; tuy nhiên, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, khả năng cạnh tranh, sức chống chịu còn hạn chế; chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập bên trong kéo dài nhiều năm; dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nặng nề ở nhiều địa phương…
Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; sự chủ động, tích cực, đồng hành, phối hợp chặt chẽ của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt, chủ động, kịp thời, sát thực tiễn của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; sự ủng hộ, tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự hợp tác, hỗ trợ của bạn bè quốc tế, tình hình KTXH tiếp tục xu hướng phục hồi, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh không mấy sáng sủa của kinh tế thế giới.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành có kinh nghiệm hơn, đổi mới, chủ động, linh hoạt, hiệu quả hơn
Thực hiện nghiêm các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội; với phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả", Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, báo cáo xin ý kiến Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trình Quốc hội tháo gỡ ngay những khó khăn về thể chế, cơ chế, chính sách; bám sát tình hình thực tiễn, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả, đúng thời điểm; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện trên các lĩnh vực. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phục hồi và phát triển KTXH, nhanh chóng "xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái"; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng các quy hoạch; ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin để điều hành theo hướng đến tận cơ sở; thành lập 5 Tổ công tác đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công và 26 Tổ công tác của Thành viên Chính phủ trực tiếp nắm bắt, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc ở địa phương; Tổ công tác của Chính phủ để giải quyết vấn đề bất động sản. Tổ chức nhiều hội nghị, cuộc họp để xử lý kịp thời các vấn đề quan trọng, cấp bách. Tập trung chỉ đạo xử lý các vấn đề tồn đọng kéo dài và những vấn đề mới phát sinh. Quyết liệt phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm
Tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước, cả năm tăng 5,05%, thuộc nhóm tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới, nâng quy mô nền kinh tế lên khoảng 430 tỷ USD. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 3,25% (thấp hơn mục tiêu đề ra khoảng 4,5%). Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2% so với cuối năm 2022. Khu vực nông nghiệp là điểm sáng, tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế, năm 2023 tăng 3,83%, cao nhất trong 10 năm qua. Khu vực dịch vụ tăng 6,82%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,6%. Công nghiệp phục hồi nhanh qua từng quý, cả năm tăng 3,02%.
Thu NSNN vượt khoảng 8,12% dự toán trong khi đã miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất gần 194 nghìn tỷ đồng; đồng thời tăng thu, tiết kiệm chi, đã trích lập được khoảng 560 nghìn tỷ đồng, bảo đảm đủ nguồn để cải cách tiền lương trong 3 năm 2024 - 2026. Bội chi NSNN, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia và nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu NSNN thấp hơn nhiều giới hạn và ngưỡng cảnh báo. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm đạt 683 tỷ USD; xuất siêu khoảng 28 tỷ USD (nhiều nhất từ trước đến nay), góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. An ninh năng lượng, an ninh lương thực được bảo đảm (xuất khẩu 8,34 triệu tấn gạo với giá trị 4,78 tỷ USD, tăng 38,4%, cao nhất từ trước đến nay); cơ bản bảo đảm cung cầu lao động.
Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta. Fitch Ratings nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng "Ổn định", châu Á - Thái Bình Dương chỉ có 02 trong 62 nước được nâng hạng; giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh và có tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh nhất thế giới trong giai đoạn 2020 - 2022.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 6,2% so với năm 2022. Giải ngân vốn đầu tư công dự kiến đạt 95% kế hoạch (năm 2022 là 91,42%), số tuyệt đối đạt gần 676 nghìn tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay, cao hơn khoảng 146 nghìn tỷ đồng so với năm 2022. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% trong bối cảnh thương mại, đầu tư toàn cầu bị thu hẹp; vốn FDI thực hiện đạt gần 23,2 tỷ USD (tăng 3,5%), cao nhất từ trước đến nay, cho thấy Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài và là hiệu ứng của chính sách ngoại giao "cây tre". Vốn đầu tư ra nước ngoài đăng ký luỹ kế đạt 22,1 tỷ USD; lợi nhuận chuyển về nước đạt 2 tỷ USD. Có 217,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới và quay trở lại thị trường, tăng 4,5% so với năm 2022. Đã đón 12,6 triệu lượt khách quốc tế, vượt xa mục tiêu 8 triệu lượt khách.
Cơ cấu lại nền kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh; tích cực thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, năm 2023, tỷ trọng kinh tế số ước đạt khoảng 16,5% GDP, là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế số nhanh nhất khu vực Đông Nam Á trong 2 năm liên tiếp (2022 - 2023). Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển, liên kết vùng. Hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được cải thiện; doanh thu, lợi nhuận, nộp NSNN cơ bản tăng so với cùng kỳ.
Tập trung thực hiện quyết liệt 03 đột phá chiến lược
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế được chú trọng, có nhiều đổi mới trong cách chỉ đạo, cách làm. Năm 2023, Chính phủ đã tổ chức 10 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật; đã trình Quốc hội thông qua 16 luật, 29 Nghị quyết, cho ý kiến đối với 10 dự án luật. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 127 văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt 108/111 quy hoạch, trong đó Quốc hội đã thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia.
Tập trung triển khai Đề án sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã được Bộ Chính trị và Quốc hội thông qua. Đã cắt giảm, đơn giản hóa 628 quy định kinh doanh; đơn giản hóa 535, phân cấp 153 thủ tục hành chính. Rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và văn hoá công vụ. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam tăng 12 bậc. Đề án 06 được chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm cao, đạt kết quả nổi bật, là điểm sáng trong chuyển đổi số quốc gia.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược có sự chuyển biến vượt bậc, nhất là đột phá về hạ tầng giao thông. Đầu năm 2023 khởi công đồng loạt 12 dự án cao tốc Bắc - Nam, giữa năm khánh thành 9 dự án, cuối năm khánh thành đồng loạt 4 dự án ngành giao thông; đưa vào sử dụng trong năm 2023 là 475 km đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là khoảng 1.900 km. Đồng thời, khởi công 3 cao tốc trục Đông - Tây, 2 đường vành đai, cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang, nhà ga T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành... Đưa vào khai thác Nhà ga T2 - cảng hàng không Phú Bài, cảng hàng không Điện Biên, cầu Mỹ Thuận 2, cầu Vĩnh Tuy 2 và nhiều công trình giao thông khác. Phát triển mạnh hạ tầng xanh, hạ tầng số hiện đại, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn.
Tập trung phát triển nguồn nhân lực gắn với KHCN, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Chất lượng giáo dục phổ thông, đại học, giáo dục nghề nghiệp tiếp tục được nâng lên. Học sinh Việt Nam đạt thành tích cao tại các kỳ thi quốc tế; nhiều nhà khoa học được thế giới vinh danh. Đã đưa 155 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng 8,55% so với năm 2022. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh; khánh thành Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022.
Phát triển văn hóa, xã hội được chú trọng, đạt kết quả toàn diện. Toàn bộ các chỉ tiêu về xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Tổ chức thành công chuỗi các sự kiện kỷ niệm 80 năm Đề cương về Văn hóa Việt Nam. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa, bảo tồn và phát triển, được quốc tế công nhận; Việt Nam lần thứ 2 là thành viên của Ủy ban Di sản Thế giới.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp; đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động đạt 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 6,9%.
Đẩy mạnh quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh và là điểm sáng của năm 2023. Tập trung xử lý, tháo gỡ nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài.
Kết quả phát triển KTXH của các địa phương
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, khai thác tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh và đạt được những kết quả khá toàn diện, đóng góp vào thành tựu chung của cả nước. Nhiều địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Thanh Hóa… tiếp tục phục hồi và là điểm sáng trong thu hút đầu tư. GRDP của nhiều tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng khá cao như Bắc Giang, Hậu Giang, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Nam Định…. Đã tích cực chuyển dần từ tư duy "sản xuất nông nghiệp" sang "kinh tế nông nghiệp". Sản xuất công nghiệp tại nhiều nơi phục hồi ấn tượng hoặc duy trì đà tăng nhanh. Kết cấu hạ tầng KTXH được quan tâm đầu tư; liên kết tỉnh, liên kết vùng được tăng cường; công tác giải phóng mặt bằng, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh được đẩy mạnh. Một số tỉnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên, Kon Tum có tốc độ giảm nghèo nhanh.
Bên cạnh những kết quả đạt được là cơ bản; nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần tiếp tục tập trung khắc phục. Tăng trưởng kinh tế thuộc nhóm cao trong khu vực, thế giới song chưa đạt mục tiêu đề ra. Nguyên nhân chủ yếu là suy giảm tổng cầu, đứt gãy chuỗi cung ứng, sản xuất, chính sách tiền tệ thắt chặt của các nước là thị trường lớn, truyền thống của ta… Sản xuất và cung ứng điện cơ bản đáp ứng nhu cầu, tuy nhiên vẫn còn tình trạng thiếu điện cục bộ trong tháng 5-6 năm 2023 chủ yếu do khâu điều độ, truyền tải và phân phối còn bị động, lúng túng. Hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, số doanh nghiệp giải thể, phá sản tăng cao, tình trạng doanh nghiệp thiếu đơn hàng diễn ra phổ biến chủ yếu do nhu cầu tiêu thụ trong, ngoài nước suy giảm.
Tiếp cận tín dụng còn khó khăn. Thị trường bất động sản dù được cải thiện nhưng còn trầm lắng chủ yếu do bất cập về phân khúc và vướng mắc về pháp lý. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang được tháo gỡ và tăng cường công tác thanh tra, giám sát nhưng còn tiềm ẩn rủi ro. Việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, dự án tồn đọng còn lại gặp nhiều khó khăn do phải thực hiện nhiều quy trình, thủ tục, trong đó có việc đánh giá, thẩm định chính xác giá trị tài sản đã qua nhiều năm. Tốc độ tăng năng suất lao động chưa đạt yêu cầu chủ yếu là do tăng trưởng chưa cao và tỷ trọng lao động phi chính thức còn nhiều.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2024
Chính phủ ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (6-6,5%), giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát (4-4,5%), bảo đảm các cân đối lớn; giữ ổn định giá trị đồng Việt Nam; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt trên 95% kế hoạch; kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, các chỉ tiêu an toàn nợ công trong giới hạn cho phép, cắt giảm chi thường xuyên 5%. Tập trung vào 03 động lực tăng trưởng; làm mới các động lực tăng trưởng cũ và khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới. Thực hiện quyết liệt, hiệu quả 03 đột phá chiến lược. Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, phấn đấu hoàn thành mục tiêu có 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025. Trong năm 2024, hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên. Nâng cấp các tuyến luồng hàng hải vào cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng Nam Nghi Sơn; trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; khởi công một số dự án đường bộ cao tốc. Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng số, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu và các hạ tầng quan trọng khác. Nghiên cứu, đề xuất ban hành một số chủ trương, cơ chế đặc thù thúc đẩy phát triển điện lực, năng lượng tái tạo; triển khai kịp thời, hiệu quả Quy hoạch điện VIII, kiên quyết không để thiếu điện, xăng dầu. Tích cực triển khai Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị về phát triển bền vững đô thị Việt Nam; phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đạt trên 43,7%.
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo, chíp bán dẫn gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. Xây dựng và triển khai Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, trong đó tập trung đào tạo 50-100 nghìn nhân lực giai đoạn 2024 - 2030.
Thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, sức cạnh tranh; tăng cường ứng dụng KHCN, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh phát triển các mô hình kinh tế mới, thương mại điện tử, thương mại biên giới. Phục hồi, phát triển mạnh các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất chíp bán dẫn; thúc đẩy phát triển, hội nhập thị trường tín chỉ các-bon. Tích cực triển khai Đề án trồng 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh và huy động, sử dụng hiệu quả khoản vay 2,5 tỷ USD vốn vay ưu đãi, vốn ODA cho phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tiết giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp; Tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.