Bệnh nhân COVID-19 có diễn biến nặng được chữa trị như thế nào?
(VOVTV) - Bệnh nhân COVID-19 có diễn biến nặng ở Việt Nam chiếm gần 20%. Được biết, khoảng thời gian từ khi có triệu chứng đến khi diễn biến nặng chỉ trong khoảng 7-8 ngày.
Bộ Y tế vừa có Quyết định số 2008/QĐ-BYT về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng virrus SARS-CoV-2. Hướng dẫn này có hiệu lực từ ngày 26/4/2021 và thay thế cho Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng virrus SARS-CoV-2 ban hành kèm theo Quyết định số 3351/QĐ-BYT ngày 29/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Người mắc COVID-19 có biểu hiện lâm sàng đa dạng, từ nhiễm không có triệu chứng, tới những biểu hiện bệnh lý nặng, như viêm phổi nặng, suy hô hấp, sốc nhiễm trùng, suy chức năng đa cơ quan và tử vong, đặc biệt ở những người cao tuổi, người có bệnh mạn tính hay suy giảm miễn dịch, hoặc có đồng nhiễm hay bội nhiễm các căn nguyên khác như vi khuẩn, nấm. Cơ chế bệnh sinh của bệnh có vai trò của "cơn bão cytokine" và huyết khối mao mạch phổi trong các ca bệnh có suy hô hấp nặng và nguy kịch.
Hiện tại, COVID-19 chưa có thuốc đặc hiệu nên chủ yếu là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Các biện pháp phòng bệnh chính là tiêm phòng vaccine, phát hiện sớm và cách ly ca bệnh.
Triệu chứng của bệnh nhân COVID-19 diễn biến nặng
Hướng dẫn của Bộ Y tế cho biết: Thời gian ủ bệnh của COVID-19 từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày.
Hầu hết người bệnh (khoảng hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng một tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng nào. Ngoài ra, có khoảng gần 20% số bệnh nhân diễn biến nặng.
Các biểu hiện nặng bao gồm: Viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện... Trong đó khoảng 5% cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp, như: Thở nhanh, khó thở, tím tái..., hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), sốc nhiễm trùng, suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong.
Theo Bộ Y tế, tử vong bởi COVID-19 xảy ra nhiều hơn ở người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo. Ở người lớn, các yếu tố tiên lượng tăng nguy cơ tử vong là tuổi cao, điểm suy đa tạng (SOFA) cao khi nhập viện...
Phân loại bệnh nhân COVID-19 trong quá trình điều trị
Theo Bộ Y tế, nguyên tắc điều trị chung, phân loại người bệnh và xác định nơi điều trị theo các mức độ nghiêm trọng của bệnh. Cụ thể, với ca bệnh nhẹ (viêm đường hô hấp trên, viêm phổi nhẹ), điều trị tại các khoa, phòng thông thường. Ca bệnh nặng (viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết) hoặc ca bệnh nhẹ ở người có các bệnh mạn tính hay người cao tuổi cần được điều trị tại các phòng cấp cứu của các khoa, phòng hoặc hồi sức tích cực.
Ca bệnh nặng - nguy kịch (suy hô hấp nặng, sốc nhiễm trùng, suy đa cơ quan) cần được điều trị hồi sức tích cực. Do COVID-19 chưa có thuốc đặc hiệu, nên điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng là chủ yếu.
Bệnh COVID-19 có các mức độ
Không triệu chứng: là người nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng định bằng xét nghiệm realtime RT-PCR dương tính, nhưng không có triệu chứng lâm sàng.
Mức độ nhẹ: Viêm đường hô hấp trên cấp tính. Người bệnh nhiễm SARS-CoV-2 có các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như như sốt, ho khan, đau họng, nghẹt mũi, mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ và Không có các dấu hiệu của viêm phổi hoặc thiếu ô xy.
Mức độ vừa: Viêm phổi. Người bệnh có triệu chứng ho hoặc khó thở và thở nhanh. Thở nhanh được xác định khi nhịp thở ≥ 60 lần/phút ở trẻ dưới 2 tháng; ≥ 50 lần/phút ở trẻ từ 2-11 tháng; ≥ 40 lần/phút ở trẻ từ 1 - 5 tuổi) và không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, tuy nhiên hình ảnh X-quang, siêu âm hoặc CT phổi thấy hình ảnh viêm phổi kẽ hoặc phát hiện các biến chứng.
Mức độ nặng: Viêm phổi nặng. Bệnh nhân có triệu chứng ho hoặc khó thở, và có ít nhất một trong các dấu hiệu sau đây: tím tái hoặc SpO2 < 93%; suy hô hấp nặng (thở rên, rút lõm lồng ngực); Hoặc trẻ được chẩn đoán viêm phổi và có bất kỳ dấu hiệu nặng sau: không thể uống/bú được; rối loạn ý thức (li bì hoặc hôn mê); co giật. Có thể có các dấu hiệu khác của viêm phổi như rút lõm lồng ngực, thở nhanh (tần số thở/phút như trên).
Mức độ nguy kịch gồm: Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS); Nhiễm trùng huyết (sepsis); Sốc nhiễm trùng; Các biến chứng nặng- nguy kịch khác: nhồi máu phổi, đột quỵ, sảng.
Bộ Y tế nhấn mạnh: Cần theo dõi sát và áp dụng các biện pháp chẩn đoán xác định khi nghi ngờ và có biện pháp điều trị phù hợp.
Các tiêu chuẩn xuất viện của người bệnh
Bộ Y tế cũng quy định, người bệnh được xuất viện khi có đủ các tiêu chuẩn: Hết sốt, các triệu chứng lâm sàng cải thiện, toàn trạng tốt, các dấu hiệu sinh tồn ổn định, chức năng các cơ quan bình thường, xét nghiệm máu trở về bình thường, X-quang phổi cải thiện.
Ngoài ra, người bệnh đã cách ly tập trung tại cơ sở y tế tối thiểu 14 ngày từ khi có triệu chứng lâm sàng đầu tiên, đồng thời có tối thiểu hai mẫu bệnh phẩm liên tiếp (cách nhau từ 48 đến 72 giờ) âm tính với virus SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR; thời gian từ khi lấy mẫu bệnh phẩm cuối cùng tới khi ra viện không quá 24 giờ.
Sau khi xuất viện, người bệnh cần tiếp tục được cách ly phù hợp tại nhà dưới sự giám sát của y tế cơ sở và trung tâm kiểm soát bệnh tật địa phương thêm 14 ngày và theo dõi thân nhiệt tại nhà 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38°C ở hai lần đo liên tiếp hoặc có các dấu hiệu bất thường khác phải đến khám lại ngay tại các cơ sở y tế.
Cùng với đó, người bệnh được làm xét nghiệm virus SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR tại thời điểm ngày thứ 7 và ngày thứ 14. Đối với những trường hợp xét nghiệm virrus SARS-CoV-2 bằng phương pháp RT-PCR tái dương tính trong thời gian theo dõi sau xuất viện, bệnh nhân cần được tiếp tục cách ly tại nhà 7 ngày và làm thêm một lần xét nghiệm vào ngày thứ 7.
Tin nổi bật
Tin Video